Đâu rồi xuân về nồng nàn trầu cau,Hè qua ve đưa sen tàn từ lâu.Thu phơi yên hà mênh mang lòng đau.Cho đông buồn thiu tình trôi về đâu .!.…

Thứ Sáu, 21 tháng 11, 2014

Ô LÂU GIANG PHÚ!

Ô LÂU GIANG PHÚ!
Từ châu Hoan Châu Hóa-thiên di tạm dừng Chân
Đến Châu Rí châu Ô - lập nghiệp thôi tiếp bước
Chim đậu -đất lành xứ ô lâu
Người nương -suối ngọt miền sông nước

Trộm nghe,nên nay!
Kẻ Hậu Bối - Giam thân trích lục cùng miền xuôi
Bậc Tiền Nhân- Gợi ý sao tìm khắp mạn ngược.
Bao bận -Manh nha đứng chờ cung tay để nâng nghiên
Đôi phen-Thắc thỏm ngồi đợi dỏi mắt mong mài mực.

Vẫn còn đó- Cây đa gió gom nghĩa ngày xưa
Mãi lưu đây-Bến cộ trăng gọi tình thuở trước.

Vinh quang thay!
Miền Câu Lãm - Bùi Dục Tài Tiến Sĩ khai khoa”1”
Xứ Vân Trình - Trần Văn Kỷ Trung thư phục quốc”2”
Làng Vĩnh Cố- Ngyễn Quang Vệ Uý đã tới vinh quang
Quê An Thơ –Lục Sự Hoàng Từ lui về tủi nhục.
Hào hoa Kẻ Vịnh -Thượng quan Nguyễn Đức Trứ giữ dạ thanh liêm
Lịch lãm An Thư- Tuần phủ Nguyễn Đức Hoan gìn lòng chính trực”+”.

Không hẳn Nam tử- Bút tung phượng múa rồng bay
Mà còn Nữ lưu - Chữ động quần là áo lượt
Qua Mỹ Chánh - Lừng danh thứ thiếp “3”Quang Trung- một dạ thương nòi
Về Hội Kỳ - Ngát tiếng Cửu Giai “4” Thành Thái - chung lòng yêu nước.
Trang võ tướng- Đôi bờ còn tán tụng giỏi binh thư
Đấng văn quan-Muôn bến mãi biểu dương tài thao lược
Nơi hiểm trở- Quân Tây Sơn không ngại Đá giăng cồn
Chỗ khó khăn- Tướng Nguyễn Huệ chẳng tày Bà Đa vực.*

Thương kính quá!
Bờ Hà Lỗ - Thể phách Văn Sở Tướng Quân- đất gói oan khiên
Bến Ưu Điềm -Thuyền tang Tài Nhân Thị Ngọt-sóng trào sướt mướt”5”

Lẫm liệt thay!
Tráng liệt tử- Hồng Lô Tự Khanh vua Minh Mạng tặng phong
Nguyễn Tri Phương- Quân Kỳ Thạc Phụ đời Miên Tông ban tước « 6 »
Phò Mã- Kết duyên với công chúa Đồng Xuân
Nguyễn Lâm - Tử trận gìn non sông Tổ Quốc
Xã Chánh Lộc- Từ đường Phụ Tử muôn thuở khói bay
Làng Chí Long- Miếu mộ Đệ Huynh nghìn thu bia tạc.

Nghệ nhân Măc khách -Mỹ Xuyên còn nức tiếng tợ Kế Môn
Quân Tử Trượng phu- Phò Trạch mãi lừng danh như Đại Lược.

Nam Quảng Trị bao kẻ chợ-Mỹ Chánh Hà Lộc Kẻ Lạng Hà Lỗ Câu Nhi,AnThơ Phú Kinh Kẻ Văn Kẻ Vịnh sử xanh không quên,
Bắc Thừa Thiên bấy làng quê - Phước Tích Mỹ Xuyên Trạch Phổ Ưu Điềm Hòa Viện,Vĩnh An Vân Trình Phú Nông Điền Hương con đỏ còn thuộc. « 7 »

Thời Minh Mạng –Lừng danh An Thơ Nguyễn Đức Hoạt Thượng Thư Nguyễn Đức Tư Tri Phủ vọng tộc thế phiệt trâm anh,
Thuở Miên Tông- Vang tiếng Kẻ Vịnh Tri Phủ Nguyễn Đức Dĩnh Viên Ngoại Nguyễn Đức Giãn thế gia vương tôn đài các.

Đất Văn Qũy - công thần Nguyễn Văn Vịnh Tri phủ Viện Sỹ Hàn Lâm
Xứ Câu Nhi-Danh tướng Hoàng Tự Bôi Tam Phẩm Phụng Sắc Triều Mạc. « 8»
Làng cổ Phước Tích-Họa sư Lê Văn Miến màu đọng lung linh « 9»
Giáo xứ Kẻ Văn-Thánh đạo Lê Đăng Thị hương bay ngào ngạt « 10».
Đôi bờ Nam bắc- Cử nhân Tiến sĩ như lá lay bay
Hai dải Trị Thiên-Khanh Tướng công hầu tợ sương lác đác.

Uy nghiêm Phạm vũ-Gia trì khuya sớm ngân tiếng u huyền
Lồng lộng Giáo đường - Cầu nguyện chiều hôm lắng lời trầm mặc.
Cội nguồn sông suối - Hợp lưu cùng sóng nước quần tụ mênh mông
Mạng mạch Ô lâu - Chung thủy với Tam giang tương phùng bát ngát.

Ngẫm nay !
Mây vạn thuở- lang thang đổi săc giữa trời xanh
sóng muôn đời- lãng đãng thay màu bên nước bạc.
Ngày xuống- ngồi đong cuộc có-không
Sáng lên- đứng lường thời được mất.
Thô thiển - Đôi dòng tâm niệm tiếc thương
Bùi ngùi – mấy chữ lòng hoài cảm tác !

                                     Mùa đông Giáp Ngọ
                                        LĐM Phụng Bút

GHI CHÚ :
1- Câu Lãm:Bùi Dục Tài người đổ Tiến sỉ thời Vua Lê Hiển Tông, đây là vị tiến sỉ khai khoa của xứ Đàng Trong, Ông được thăng quan đến chức Tả thị lang Bộ Lại
2- Vân Trình: Trần Văn Kỷ, người làng Vân Trình (tục gọi là làng Rào), tổng Vĩnh Xương, huyện Hương Trà, phủ Triệu Phong, trấn Thuận Hóa (nay thuộc xã Phong Bình, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên - Huế). vốn có văn học, là bậc danh sĩ ở Nam Hà. Được Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ tin dùng, phong đến chức Trung Thư Phụng Chính, tức chức quan chuyên lo việc dự thảo chính lệnh cho nhà vua.
3-Mỹ Chánh :Nguyễn Thị Bích-người vợ thứ hai của anh hùng Nguyễn Huệ - Hoàng Đế Quang Trung
4- Dương Thị Ngọt ở làng Hội Kỳ, xã Hải Chánh ,Với vẻ đẹp đoan trang và phẩm hạnh cao quý, cô gái Dương Thị Ngọt đã trở thành “cửu giai tài nhân” của vị vua yêu nước Thành Thái. Được vua Thành Thái hết mực yêu thương và sủng ái, bà phi Dương Thị Ngọt đã không tránh khỏi sự ghen ghét, đố kỵ vẫn thường xảy ra ở chốn hậu cung mà kết cục là bà bị giáng tội khi quân và phải lãnh án hình xử chém. Tiếc thương ái phi Dương Thị Ngọt, vua Thành Thái đã cho cử hành tang lễ của bà theo nghi lễ của triều đình đối với một hoàng phi và dùng thuyền rồng đưa Linh cửu bà về Cặp bến Uu Điềm và đưa lên yên nghỉ tại quê nhà thân yêu ở thôn Hội Kỳ bên dòng Ô Lâu.
5- Tướng Ngô Văn Sở, một người có công đối với nhà Tây Sơn, nhưng không may bị tội, phải dìm xuống nước sông Hương cho đến chết, thi hài chôn ở gần chùa Linh Mụ. Sau đó hai năm, ông được triều đình phục chức và cho cải táng đưa ra chôn ở làng Hà Lỗ bên bờ sông Ô Giang.
*Địa danh đoạn Sông ở Hội Kỳ có tên:vực Bà Đa và Bãi Đá giăng.
6- Nguyễn Tri Phương tên cũ là Nguyễn Văn Chương, tự Hàm Trinh, hiệu là Đồng Xuyên, sinh ngày 21 tháng 7 năm Canh Thân(1800), quê làng Đường Long (Chí Long), xã Chánh Lộc, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế.
Ông xuất thân trong một gia đình làm ruộng và nghề thợ mộc. Nhà nghèo lại không xuất thân từ khoa bảng nhưng nhờ ý chí tự lập ông đã làm nên công nghiệp lớn.
Năm Quý Mùi (1823), vua Minh Mạng đề bạt ông hàm Điển bộ (Bí thư ở Nội điện), năm sau thăng Tu soạn, rồi Thừa chỉ ở Nội các, hai năm sau thăng Thị độc, Thị giảng học sĩ, năm 1831 thăng Hồng Lô tự khanh.
Tháng 5 năm 1847, ông được triệu về kinh, thăng hàm Chánh Hiệp biện đại học sĩ, lãnh Thượng thư bộ Công đại thần Cơ mật viện, tước Tráng Liệt tử và được ban một Ngọc bài có khắc bốn chữ "Quân kỳ thạc phụ", được chép công trạng vào bia đá ở Võ miếu (Huế)
Con trai Nguyễn Tri Phương là Phò mã Nguyễn Lâm bị trúng đạn chết tại trận Nguyễn Tri Phương cũng bị trọng thương. Ông được lính Pháp cứu chữa, nhưng ông khảng khái từ chối và nói rằng: "Bây giờ nếu ta chỉ gắng lây lất mà sống, sao bằng thung dung chết về việc nghĩa Sau đó, ông tuyệt thực gần một tháng và mất vào ngày 20 tháng 12 năm 1873 (1 tháng 11 Âm lịch), thọ 73 tuổi. Thi hài ông và Nguyễn Lâm được đưa về an táng tại quê nhà. Đích thân vua Tự Đức tự soạn bài văn tế cho ba vị công thần (Nguyễn Duy, Nguyễn Lâm, Nguyễn Tri Phương) và cho lập đền thờ Nguyễn Tri Phương tại quê nhà.
7- Tên làng chữ đậm
8-Hoàng Bôi Người xã Câu Nhi, thôn Câu Lãm Hải Lăng!Triều Mạc ,được dự vào hàng 5 bậc tước,Quan vào hàng Tam Phẩm
9- Lê Văn Miến (1874-1943) là người Việt Nam đầu tiên tốt nghiệp Trường Mỹ thuật Paris, là hoạ sĩ đầu tiên ở Việt Nam.
10- Giuse Lê Đăng THỊ, sinh năm 1825 tại Kẻ Văn, Quảng Trị. Làm Cai Đội dưới thời vua Tự Đức, xử giảo ngày 24-10-1860 tại An Hòa, phong Chân Phước ngày 02-5-1909 do Đức Piô X, phong hiển thánh

Thứ Năm, 16 tháng 10, 2014

ĐỌC “TIỆC RƯỢU GIỮA ĐỒNG” THƠ LĐM Tác gỉa: Châu Thạch



                                ĐỌC “TIỆC RƯỢU GIỮA ĐỒNG”
                                                         THƠ LĐM

                                                              Bình thơ: Châu Thạch

Nhiều người hiểu chữ “Lãng Mạn” có nghĩa đen là “sóng tràn bờ”, là một trạng thái cảm xúc bay bổng,
Phản ảnh một ước mơ của khát vọng vươn lên trên thực tại. Nếu đúng nghĩa là như vậy thì bài thơ “ Tiệc rượu giữa đồng’ cúa lê Đăng Mành là một bài thơ rất lãng mạn và lãng mạn ngay từ cái đầu đề. Thật vậy, có mấy ai mở tiệc rượu giữa đồng. Tiệc rượu đó nếu không là ngông, là kỳ quặc thì phải có ý nghĩa gì vượt xa sự thường tình ở đời. Đọc toàn bộ bài thơ ta thấy nó không ngông, không kỳ quặc mà phát hiện ở đó bày tỏ một nhân cách sống thanh bần và cao thượng:
               
 TIỆC RƯỢU GIỮA ĐỒNG!

Chiều sắp xuống tung lưới quẳng về tây
Vội vã khói mây tiễn cuộc hao gầy
Hư không có biết mai còn gặp lại
Thôi tới đây cạn chén giữa ruộng này

Kênh- mương- bờ - thửa, mâm bàn tiếp bạn…
Lấp lánh hôn hoàng nghiêng vạt cò chao
Bát ngát mênh mông như tranh thủy mặc
Rượu chay chén chuyển khiếp tận vườn đào*
 
Hắt một chén nhâm nhi cùng gió lộng
Không cao lương nên chẳng móc chuyện người
Chén tiếp chén …tay chuyền tay dân dã
Kiếp nông bần uống rượu… cũng kiệm lời

Chẳng khoa trương chuyện thương nòi yêu nước
Mà sử sách ghi mỏi trang bốn ngàn
Chân lấm tay bùn trí soi văn sách
Khoa bảng vọng đồng văn thánh còn ngân

Hắt chén nữa ruộng mương là chăn chiếu
Có ói đây cũng phân bón đất cày
Cho mầm tươi nứt- trổ bông hào kiệt
Dẫu tắt hơi ! thân hóa cỏ đê này

Lý lịch trơn nhờ bùn đất tắm gội
Hãy giữ gìn tinh khiết khi lỡ say
Như sen kia chẳng làm dơ nguồn cội
Vẫn ngát hương thơm hiến cuộc đời này…!

                                            LĐM
*Nơi anh em Lưu Bị kết nghĩa
Vế đầu của bài thơ giới thiệu một tiệc rượu mở ra trên đồng ruộng trong khung cảnh buổi chiều bóng ngã vể tây. Lý do để mở tiệc là vì tác giả sợ đời là hư không nên biết đâu không còn cơ hội gặp nhau . Đọc vế thơ nầy ta biết ngay tác giả dùng bữa tiệc trên đồng ruộng hoặc hư cấu một bữa tiệc như thế để bày tỏ phong cách sống của mình trong những tháng năm vào tuổi Hạc:

            Chiều sắp xuống tung lưới quẳng về tây
            Vội vã khói mây tiễn cuộc hao gầy
            Hư không có biết mai còn gặp lại
            Thôi tới đây cạn chén giữa ruộng này
                 
Chiều sắp xuống tung lưới quẳng về tây” là hình ảnh sống động chỉ sự sắp ra đi ở cuối đời người. Buổi chiều của thời gian chỉ kéo ánh sáng quăng về tây nhưng buổi chiều của đời người thì kéo tất cả vào cái lưới trời lồng lộng quăng vào trong bóng tối. Vậy chữ “tây” ở đây là bên kia thế giới của sự sống hiện tại.

“ Thôi tới đây cạn chén giữa ruộng nầy”: Vì “chiều” thể hiện cho cuộc đời còn lại, “tây’ thể hiện cho thế giới chết bên kia nên “ruộng” ở đây thể hiện cho đất sống hiện tại và “rượu” là niềm vui cần hưởng thụ.

Bốn câu thơ mở đầu đã thể hiện ngay một cách sống vô vi, ung dung và tự tại: Chiều ngã về tây nên ta uống rượu có nghĩa là sắp lìa bỏ đời nầy ta mau hưởng thú vui trên đất.  Thú vui trên đất mà lê Đăng Mành chủ xướng chỉ là một tiệc rượu đơn sơ đạm bạc nhưng đó là linh hồn của sự thắm thiết và tinh hoa của đất trời nơi nhà thơ đang sống:

             Kênh- mương- bờ - thửa, mâm bàn tiếp bạn…
             Lấp lánh hôn hoàng nghiêng vạt cò chao
             Bát ngát mênh mông như tranh thủy mặc
             Rượu chay chén chuyển khiếp tận vườn đào*

Mâm bàn tiếp bạn ở đây là đồng ruộng thân yêu. Rượu ở đây là phong cảnh hữu tình và say ở đây là say hơn cả nghĩa vườn đào mà anh em Lưu Bị ngày xưa kết ước. Một cuộc rượu như thế là cuộc rượu không phải của người phàm phu, vì rượu ở đây là hương vị thơm tho, đẹp đẽ của đất trời trải ra trước mắt mênh mông, cao rộng với biết bao màu sắc bày ra trước mắt những con người có tâm hồn thanh tao đầy thẩm mỹ.

 Bàn rượu và rượu là thứ đời nầy chưa hề có ai đem ra mở tiệc nhưng cách uống của nhà thơ cũng khác lạ:

            Hắt một chén nhâm nhi cùng gió lộng
            Không cao lương nên chẳng móc chuyện người
            Chén tiếp chén …tay chuyền tay dân dã
            Kiếp nông bần uống rượu… cũng kiệm lời

       Chẳng khoa trương chuyện thương nòi yêu nước
       Mà sử sách ghi mỏi trang bốn ngàn
        Chân lấm tay bùn trí soi văn sách
        Khoa bảng vọng đồng văn thánh còn ngân

“Hắt một chén” có nghĩa là không phải uống vào bụng mà làm cho rượu bay ra không gian. Đây là khẩu khí của những con người hào kiệt rưới rượu giữa đất trời, bày tỏ khí phách hiên ngang của mình cùng sông núi.

Những chén tiếp theo nhà thơ chuyền tay cho bạn mình là những con người dân dã, nông bần, “kiệm lời” vì mang tâm tư sâu kín. Họ chẳng khoa trương vọng ngữ nhưng “Chân lấm tay bùn mà trí soi văn sách” Hai vế thơ nầy bày tỏ khí phách cúa những con người nhập tiệc, sự điềm đạm tỉnh táo của lớp người có nhân cách trước thế gian. Họ chỉ là người dân dã nhưng minh triết ở tâm hồn.
  Vế tiếp theo có khẩu khí sảng khoái nhất của bài thơ, như anh chàng nông dân lại múa kiếm nhuần nhuyển giữa đất trời, toát ra cái hào khí ngất trời từ trong chiếc áo nâu:  

             Hắt chén nữa ruộng mương là chăn chiếu
             Có ói đây cũng phân bón đất cày
             Cho mầm tươi nứt- trổ bông hào kiệt
             Dẫu tắt hơi ! thân hóa cỏ đê này

Cái hào khí trong chiếc áo nâu đó nhà thơ muốn không chỉ có ở đời nầy mà nó phải lưu truyền cho thế hệ sau. Dùng ruộng mương làm chăn chiếu, ói cái chất văn chương minh triết của mình để bón phân cho đất, và chôn xác mình nơi đây để hoá cỏ cho đời là lý tưởng tuyệt đối của nhà thơ. Lý tưởng đó không khó với người nông dân bình thường nhưng rất khó với người nông dân trí thức vì chim cánh rộng thì phải bay xa, mấy ai làm kẻ sĩ lại chôn chân mình nơi đồng ruộng được đâu. Nhưng nếu kẻ sĩ  chôn được chân mình nơi đồng ruộng thì nó sẽ biến thành đóa sen đẹp hoàn toàn như vế chót của bài thơ :

         Lý lịch trơn nhờ bùn đất tắm gội
         Hãy giữ gìn tinh khiết khi lỡ say
         Như sen kia chẳng làm dơ nguồn cội
         Vẫn ngát hương thơm hiến cuộc đời này…!

Cuộc đời nầy rất cần nhiều nhân vật trong thơ lê Đăng Mành vì mấy ai chịu “giữ gìn tinh khiết khi lỡ say”, bởi vì họ chẳng say “Tiệc rượu giữa đồng” mà say trên bàn cao ghế đẹp.
   Bài thơ “Tiệc rượu giữa đồng” là một triết lý sống
thanh cao lồng trong một phong cách sống thanh bần.
Ý nghĩa của bài thơ thật sâu xa lồng trong lời thơ thanh thoát.
Rất tiếc người bình không viết đạt những gì mình cảm nhận trong thơ ./.

                                                                                         Châu Thạch

Cập nhật lại theo nguyên bản của tác giả gửi từ:
van tran
truongvantran@hotmail.com
                                                    Sương mai Quê mình "Ảnh LĐM"

TIỆC RƯỢU GIỮA ĐỒNG!


TIỆC RƯỢU GIỮA ĐỒNG!

Chiều sắp xuống tung lưới qung về tây
Vội vã khói mây tiễn cuộc hao gầy
Hư không có biết mai còn gặp lại
Thôi tới đây cạn chén giữa ruộng này

Kênh- mương- bờ - thửa, mâm bàn tiếp bạn…
Lấp lánh hôn hoàng nghiêng vạt cò chao
Bát ngát mênh mông như tranh thủy mặc
Rượu chay chén chuyển khiếp tận vườn đào*

Hắt một chén nhâm nhi cùng gió lộng
Không cao lương nên chẳng móc chuyện người
Chén tiếp chén …tay chuyền tay dân dã
Kiếp nông bần uống rượu… cũng kiệm lời

Chẳng khoa trương chuyện thương nòi yêu nước
Mà sử sách ghi mỏi trang bốn ngàn
Chân lấm tay bùn trí soi văn sách
Khoa bảng vọng đồng văn thánh còn ngân

Hắt chén nữa ruộng mương là chăn chiếu
Có ói đây cũng phân bón đất cày
Cho mầm tươi nứt- trổ bông hào kiệt
Dẫu tắt hơi ! thân hóa cỏ đê này

Lý lịch trơn nhờ bùn đất tắm gội
Hãy giữ gìn tinh khiết khi lỡ say
Như sen kia chẳng làm dơ nguồn cội
Vẫn ngát hương thơm hiến cuộc đời này…!

                                            LĐM
*Nơi anh em Lưu Bị kết nghĩa
 
 
 

Thứ Bảy, 27 tháng 9, 2014

THƯ PHÁP !

                                    

Nước ở quanh ta và nước ở trong ta...
Nước linh động và biến hóa như Đạo,
Nước cũng bình thản và vô ngôn như Đạo !
                                           

Chủ Nhật, 7 tháng 9, 2014

THƯ PHÁP


Đừng oán người làm Con đau khổ,vì Họ chỉ là công cụ ở ngoài chính Họ, Đó là những vị BỒ TÁT phát tâm hành nghịch độ cho Con quả thiện tròn đầy. Đó là những vị BỒ TÁT trải thân làm cầu đường cho chúng sanh đi đến giải thoát,và luôn nhớ chư BỒ TÁT không chỉ mang tướng thiện để độ sanh,
Hãy cầu nguyện cho các vị ấy sớm đắc Qủa Vị PHẬT mới trả được ân.
Phải tri ân những người mang đau khổ đến cho con.
Hành như thế mới là người Trí Tuệ,hành như thế mới là người sống đúng
Hành như thế mới là CON PHẬT
                                                                                Trích "Đạo Phật trong đời sống"
 
                                                   TỪ BI !
Gi b tri túc – chng vương ai
Lưng chén cơm khoai cũng sng dài
Cá tht cao lương càng kh oi
Mui cà đm bc li vui dai
Yêu thương thúc lim – đi thường ti
Cảm hóa chiêu lành – cõi v lai
Nuôi dưỡng mm t tươi thm mãi
cho đời an lc giữa tàn phai! 
                                                     LĐM
 
 

Chủ Nhật, 24 tháng 8, 2014

Thứ Tư, 20 tháng 8, 2014

ĐIẾU VĂN




                               Kính Điếu Hương Linh Anh Nguyễn Văn Sỹ
                                             Pháp Danh: Nguyên Bình
                                                             ***

Hỡi ôi !


Giọt ngoi nam* tươi mát- bất chợt mây về ảm đạm âu sầu !
Cơn nắng hạ yên lành-bỗng dưng gió tới đìu hiu lất phất

Văn Quỹ xa xót đớn đau
Đông Hà tủi buồn chất ngất…!

Nhớ linh xưa!

Nuôi Dưỡng trong nền nếp gia phong
Học tập từ mối giềng hạnh đức
Mười hai huynh đệ cảm càn khôn Trọn đạo hiếu trung
Chín chữ cù lao lay nhật nguyệt chu toàn thiện phước

Kính thay!

Thơ ấu Mẫu tâm học vỡ lòng tỏ tam cương
Thiếu niên kinh sử ươm làu thông tường vạn vật .

Trang hào kiệt nỏ hề bán tước mua danh,
Chí anh hùng nào cần thăng quan cầu chức.
Đem tài thao lược, yên non sông bốn phía an bình
Mở túi kinh luân, giúp bà con dưới trên chuẩn mực

Cao quý thay!

Hai mươi tám tuổi đẹp lương duyên ,
chồng luôn dưỡng chữ tam cương ngũ thường,
Bao mấy năm đời vui Tần tấn,
vợ mãi chăm câu tam tòng tứ đức .

Nam tử năm người đầy hiếu hạnh ,
đụng lúc trở trời cung phụng chăn chiếu thuốc thang ,
Dâu con các cháu đủ ngoan hiền ,
gặp khi trái gió kính dâng trà sâm cơm nước .

Tuổi chưa già vẫn còn dựng nghiệp ,lo cho đời vinh thăng bằng chị bằng em,
Đời còn trẻ sao vội quy tiên ,để xem con thành đạt nên mày nên mặt.
Trần gian lãng đãng liễu thân bất tịnh Anh nguyện sống đời bác ái khiêm cung,
Cõi tạm chập chờn quán pháp vô thường người mong hành đạo từ bi chính trực.

Nhớ linh xưa!

Bao độ lên rừng nam Thạch Hãn mở thoáng lạch nguồn
Mấy phen bạt núi tây đường quan** khai thông con nước.
Những cầu hội ngộ cùng quê cũ tợ muôn xưa ,
Còn ước chan hòa với xóm làng như thuở trước.
Nối chí đệ huynh mãi đọng tiếng quê hương
Giao lời tôn ,tử còn ngân vang cung bậc…!

Thương sao !

Nhìn mây vần vũ thương sắn khoai rều phủ còn ngâm,
Thấy nước dập dềnh nuối đồng lúa bùn chao chưa gặt.

Quê hương xót dạ ngậm ngùi
Cây cỏ phơi màu tang tóc !

Thương thay,ô hô!

Mãi mãi trống chiêng đồng vọng,
đâu lời cố lý qua Đình xưa ,rọi quê quán cội nguồn !?
Từ nay chuông mõ ngân rung,
vắng tiếng tha hương về chùa cũ, tìm bản lai diện mục…!
Nơi đó anh em chờ hồn phong độ -

một thời nghệ nhân ca xướng ngất ngây
Chốn kia bè bạn dỏi bóng tinh hoa-

muôn thuở thi đàn họa ngâm dìu dặt .

Văn Qũy cung thương nốt rã rời
Ô Lâu thi phú vần thao thức
…Li biệt … Nghiên cạn mực khô
…Cảm thương … Lệ đầy mắt ướt!

Nay đây!

Hoa khai tự tại đảnh lễ Phật ADI ĐÀ
Thần thức thong dong vãng sanh Trời AN DƯỠNG QUỐC
Tịnh độ sen chưng màu
Lạc bang chim phô sắc
Một chén cơm chay
Ba tuần rượu lạt
Anh em cung kính dâng bào huynh
Toàn con cháu cúi đầu khấu bái
Ôhô !Vĩnh biệt …!

LĐM phụng bút


*Ngoi nam là mưa từng chặp lất phất lay bay
để làm dịu bớt cơn "nam lửa"



**Tây Đường 1

TÔI ĐIẾU TÔI!

 
TÔI ĐIẾU TÔI!
Hỡi ôi!
Thu về  bụi nắng tủi giăng sầu
Hạ  thoát mắt sương buồn giã biệt!
Ngó sen lưu luyến ngậm thân đau
Ta người loay hoay cầm sanh diệt
Nhớ linh xưa!
Cha Mẹ hội ngộ cho riêng một hình hài
Anh em tương phùng tặng chung bầu khí huyết
Từ đâu rớt tới trụ bờ Ô lâu
Ở mô đến đây găm triền đất Việt..!?
Trần trụi thay!
Sanh ra gặp lúc bè phái như đĩa,bầy hầy quảng bá chém đâm
Lớn dậy đụng thời bang hội tợ sên,nhầy nhụa khoa trương bắn giết
Hai mươi hai chẳn - vất can trường góc khe suối cho lũ cáo chồn
Bốn chục chín dư - quăng não nề nẻo nhà thương gởi bầy cò diệc
Gặp lúc gươm tra võ - khói cuộc chiến tàn
Đụng thời ngựa tháo yên - bóng kiêu binh tiệt.
Quê nhà gặp gỡ vui với chuyện trò
Bạn bè đón đưa mừng sao kể xiết.
Thân là bụi trôi miền hữu hạn ngóng cửa vô sanh
Tâm như không chơi chốn vô cùng lên bờ bất diệt
Thương thay !
Tuổi măng non được Chị*khai tâm nắn chữ sửa bài
Thời tre lạt** nhờ Ôn*** dưỡng trí đẽo vần tập viết
Thơ ấu cù bơ cù bất giã quê quán tan tác rã rời
Thiếu niên ngáo ngáo ngơ ngơ xa nguồn cội bùi ngùi thao thiết
Những muốn đành hanh!
Binh thư lõm bõm lại bắt chước sục sạo sửa giang sơn
Võ nghệ tròm trèm ưa học đòi lăng xăng làm hào kiệt
Thấy danh lợi – lại trừng mắt tham sống
Gặp vinh hoa - thì cung tay sợ chết

Thương sao ô hô!
Chữ nghĩa lỏng bỏng lạt thếch như cháo thí,
 cũng muốn lưu giữ với càn khôn,
Văn chương lềnh bềnh chua lòm tợ nước lèo,
lại ưa thường còn cùng tuế nguyệt!
Nón tơi đỏng đảnh ghé tòa soạn gởi thơ đăng,
Google dật dờ dạo trang nhà tìm văn viết.
Thao thức chờ bài không hiển thị - thư phòng lóng nhóng để nhện giăng,
Trở trăn đợi báo chẳng đưa về - bút nghiên lơ ngơ mặc gián quệt.
Nhìn cột kèo rệu rạo bè bạn xun xoe động lòng
Thấy phên liếp liêu xiêu vợ con hít hà thương tiếc.
Bà con hỡi! Nói là nói rứa – cho vui khi mắt nhắm tay xuôi,
Bạn bè ơi! Nghe hãy nghe ri – nỏ buồn dẫu lưỡi đơ tai điếc.
Nhớ linh xưa !
Dở dang đèn sách thuở ngây thơ
Ngắn ngủi cuộc chơi thời tinh khiết.
Màn đựơc mất nói đâu cho vừa
Bả nhục vinh bàn chi mà hết
Chẳng những buông hết thù hận để tâm được rỗng rang
Mà còn xả sạch ghét ganh cho thân thôi mỏi mệt.
Để nay !
Đến Âm phủ- đó bậc thượng quan
Từ Ta bà - đây kẻ hạ liệt
Diêm Vương khảo tra
Thảo dân cáo yết
Mấy mươi năm ăn ở trên đất- thân chuyển khẩu cũng nghe tủi xót xa,
Vài ba giây giam cầm trong hòm - mũi tắt hơi đã thấy buồn da diết.
Sống với bạn ngay thẳng không niệm đổi thay
Ở cùng người thật thà chẳng tuồn chì chiết.
Dừng gieo hạt bất nghĩa nên nỏ cầu xin
Thôi cấy mầm vô nhân nào cần hối tiếc
Tự thắp nén tâm hương lúc sanh
Để huơ gươm trí tuệ khi chết
Nhục thân gởi trả trần gian vọng cầu
Thần thức bay về Phương Tây dự tiệc
Lạc bang kíp đi về
Cát bụi thôi nuối tiếc
Rượu suông chén cơm lạt - tiễn dâng
Khói nhòa Ngũ phần hương - bái biệt
 Tánh  linh thượng hưởng ! 
    
                      Vĩnh biệt Tôi ô hô!

                                                                          LĐM / Tiếu bút
*  Chị nhà phúc"Masoeur"
**Cây Tre vừa đủ lá
***Ôông HT Khai Sơn Chùa Hiếu Quang Huế
 
 
 

Chủ Nhật, 17 tháng 8, 2014

THƠ ĐƯỜNG -MÙA THU !

         
        MÙA TỰU TRƯỜNG !                 
Trời vần vũ chuyển tiết mùa sang
Thềm trước đong đưa nụ cúc vàng
Chòm phượng sương phơi màu tức tưởi
Đài mây khói bủa cảnh điêu tàn
Ngó sen quyến luyến vờn từ tạ
Giọng cuốc ngậm ngùi ướp vọng vang
Chạm cõi lòng đây trào ký ức
Trường xa khai giảng nhớ thương tràn
                             Lê Đăng Mành

  BUÔNG!
Buông bớt thiệt hơn ngẫm sự đời
Buông điều đố kỵ giảm đầu môi
Buông điêu toa bịt lòng gian dối
Buông đãi bôi nuôi lưỡi kiệm lời
Buông ghét ganh cho gần gũi bạn
Buông cừu hận  để cận thân người
Buông đi để được cầm thanh thản
Buông xả hết rồi thiệt thảnh thơi !
                                       LĐM
 XIN !

Xin người tắt bớt những cơn say
Xin ngoảnh lại coi cơ cuộc này
Xin trả vui chơi cho chốn ấy
Xin đừng khủng bố ở nơi đây
Xin thương em ngủ trườn hiên lạnh
Xin xót ME ngồi chong mắt cay
Xin bớt truy hoan- giúp mái ấm
Xin ngừng tắm máu thỏa cuồng say./.

                                       LĐM
HÃY !
Hãy sống chan hòa với cuộc đời
Hãy còn thương dẫu phải tàn hơi
Hãy đừng ngoa ngoắt khi đang thế
Hãy giảm quắt quay lúc mất thời
Hãy cấy từ bi cùng mặt đất
Hãy gieo bác ái khắp gầm trời
Hãy vì nhân loại mà chia sẻ
Hãy cứu vớt người giữa bể khơi.
                                         LĐM
CẢNH THU!

Chiều đi ngày sót chút hanh vàng
Bờ bãi sụt sùi điệu cuốc van
Lạ nước phù sa trườn khắc khoải
Quen hơi sương khói vận mơ màng
Chòm mây rũ rượi buồn li biệt
Con sóng u sầu tủi hợp tan
Màn lũ lăm le treo trước ngõ
Tuồng thu thường diễn cảnh kinh hoàng!

                                          LĐM