Đâu rồi xuân về nồng nàn trầu cau,Hè qua ve đưa sen tàn từ lâu.Thu phơi yên hà mênh mang lòng đau.Cho đông buồn thiu tình trôi về đâu .!.…

Thứ Ba, 2 tháng 8, 2016

ĐA TẠ - Những lời ân cần thăm hỏi khi LĐM nằm bệnh viện!


THƠ MỜI HỌA
ĐA TẠ!
Đa tạ ơn người đã hỏi thăm
Gặp khi bệnh hoạn phải đi nằm
Còn nghe tha thiết tình sâu đậm
Vẫn thấy ân cần nghĩa thậm thâm
Cũng bởi bão dông cầm ướt đẫm
Nên chi mưa gió phủi âm thầm
Gặp cơn số một* lòng thương cảm
An ủi nhau là ở cái tâm !
Lê Đăng Mành
*Bão số 1 vô miền Bắc
BÀI HỌA
BỆNH RỒI
Bịnh bác răng rồi khỏe sẽ thăm
Thầy lưng hắn quậy cũng đương nằm
Xem trần quả não tam thường đạm
Rõ uẩn căn phiền bát đạo thâm
Bởi dạ nhiều sương làm áo đẫm
Vì hương lắm vị níu hoa thầm
Vương mùa gió bão quê nhà thậm
Rễ trốc tan nhành động cả tâm./.
30.07.2016
Thích Tín Thuận
MỪNG
Nghe tin anh bệnh gửi lời thăm
Mạnh khỏe đừng lo tới chỗ nằm
Lãm Nguyệt đã thành nơi nghĩa nặng
Đăng Mành cũng hóa chốn tình thâm
Máu dưng chẳng loãng trao dòng ấm
Nước lã nào chua giỏ giọt thầm
Bão táp vừa qua trời lại sáng
Để mừng cuộc thế chớ lao tâm !
Phan Tự Trí
CHÚC ANH
Nghe Anh vào viện,chẳng đường thăm
Chỉ biết chúc Anh dưỡng bệnh nằm
Sức khỏe nhờ thầy ôm độ lượng
Tinh thần nguyện Phật đãi uyên thâm
Sau mưa trời sáng tầng xanh tỏa
Nhóm lửa đèn khêu quãng tối thầm
Dẫu yếu đau già thân có mỏi
Vẫn nguồn thi tứ chảy dòng tâm
Lý Đức Quỳnh
ĐÔI LỜI
Đường xa bệnh viện khó ra thăm,
Nhắn gửi riêng anh: Hãy ráng nằm.
Được chị cháo bưng bao nghĩa nặng,
Cùng con nước rót chút tình thâm.
Kim tiêm vai nhức vần rên khẽ,
Thuốc uống dạ êm tứ rộn thầm.
Giông bão đã yên trời biển lặng,
Cảm thương an ủi quý từ tâm!
BĐ,30.07.2016
VÕ TẤN HÙNG
THĂM HỎI
Làm sao gặp mặt để nhìn thăm
Giông bảo vừa qua cảnh rạc nằm
Đất sụp con đường trời ám khí
Nhà cao Lãm Nguyệt bóng im thâm
Thôi đành nhắn gởi yên bề hỏi
Gọi có tình nhau chúc phúc thầm
Cách biển ngăn sông đời một neo
Lòng nầy dạ nọ cũng an tâm
Hải Rừng
30/7/2016
THIỆN TÂM
Xa ngái nghe đau không tới thăm,
Bởi già sức yếu chỉ ngồi nằm.
Mong anh chóng khỏe lên vn nhuyễn,
Ước bạn mau lành dệt ý thâm.
Tô cháo béo ngon ăn thích thú.
Áng thơ chải chuốt nhẩm thì thầm.
Trời cho sống thọ thời gian nữa.
Giúp đỡ cộng đồng chút thiện tâm./.
30/7/2016
Hoàng Đằng
 GHÉ THĂM BẠN BỊNH
Nghe tin Huynh bịnh ghé vào thăm
Qua mấy dãy giường đến chỗ nằm
Bạn cũ về già thể lực yếu
Người xưa mang nặng mối tình thâm
Hàn huyên tâm sự lòng trìu mến
Chia sẻ buồn vui dạ nhớ thầm
Tạm biệt khách thơ còn bịn rịn
Chúc Thầy hồi phục, khỏe thân tâm.
Ngô Văn Giai
Virginia July 30/2016
THĂM HỎI HUYNH LÊ ĐĂNG MÀNH
Nối mạng đôi dòng để kính thăm
Tin anh bác sĩ bảo lưu nằm
Quen nhờ chữ nghĩa càng thân thiết
Biết bởi thơ văn đã thậm thâm
Chẳng rõ tinh thần chừ đã khỏi
Hay là thể chất vẫn lo thầm?
Mong sao chóng khỏe còn sáng tác
Cống hiến cho đời một đóa tâm.
Thủy Lâm Synh (CA)
July 30, 2016
VUI NGUỒN THI PHÚ
Vì đau bạn hữu mến thương thăm
Chuốt vận cám ơn dẫu phải nằm
Bút họa nhờ trăng qua dáng ngọc
Vần gieo gửi gió với tình thâm
Bay về quê mẹ mong tìm thấy
Ghé đến bên song cậy chúc thầm
Lão giả trở trời thường cảm cúm
Vui nguồn thi phú rạng nhân tâm.
Hoài Việt Nguyễn Vĩnh Tường
Tx 29-7-2016
CẦU TRỜI PHẬT
Muốn lắm nhưng nào dễ viếng thăm
Làng thơ nghĩa cả nặng tình thâm.
Biết rằng bệnh tật luôn dằn vặt
Thương quá ngày đêm cứ nhủ thầm..
Vào viện nhờ thầy chăm chạy chữa
Xẩy nhà lạ chỗ khổ ăn nằm.
Bọn này chỉ biết cầu Trời Phật
Phù hộ cho người vốn tốt tâm.
Trần Như Tùng
THƯ THĂM BẠN
Đường xa xôi quá khó đi thăm
Sốt ruột hay tin bạn phải nằm
Chẳng viết vài hôm, tay ắt lỏng ?
Không ngâm dăm bữa, miệng đà thâm ?
Ra vào ngóng đợi âu lo mãi
Xướng họa dò la thắc mắc thầm
Mong bệnh chóng qua, người lại khỏe
Vui cùng câu chữ thật an tâm.
Sông Thu
VẤN AN
Biết người trên mạng, chửa hề thăm
Nay mới nghe ra đã vội nằm
Thi phú cao huynh là cự phách
Văn chương thi sĩ quả uyên thâm
Tuổi già  gió máy làm khan tiếng
Sức yếu thời gian khiến nhủ thầm :
Can đảm an nhiên ta dưỡng bệnh
Thuốc men, trị liệu ….sẽ yên tâm !
Trịnh Cơ
Paris 30/07/2016
THĂM HỎI
Phải chi có dịp ghé mà thăm
Đâu biết bạn vào bệnh viện nằm
Thơ xướng đệ huynh duyên gắn bó
Tình thân thi hữu nghĩa cao thâm
Cách xa đâu phải là quên lãng
Hội ngộ tuy chưa vẫn nhớ thầm
Cầu chúc cho người mau khỏe mạnh
Có lời đa tạ cũng an tâm
Văn Thanh
GỬI BẠN LĐM
Từ xa xin gửi bạn lời thăm
Mong Nguyệt treo nghiêng cạnh chổ nằm
Hiên Lãm vườn thơ dù nắng nhạt
Ly Tao thi hữu vẫn tình thâm
AN NHIÊN một cõi hồn yên tịnh
VÔ NGẠI mười phương dạ lặng thầm
CẢM HẠ CHIỀU- THU VỀ- THỦ PHẬN
Đường dài còn rạng sáng NGUỒN TÂM
Thy Lệ Trang
-Chữ viết in: Tên những bài thơ của LĐM
HÃY AN TÂM
Chân thành xin gửi mấy dòng thăm
Suy nghĩ mà chi mệt cứ nằm
Niêm luật nâng niu lời ngọt lịm
Vườn thơ trau chuốt mắt quầng thâm
Bạn hiền im lặng người lo lắm!
Lãm Nguyệt bâng khuâng dạ ngại thầm
Thôi nhé ưu tư cùng quẳng gánh
Đừng nên nản chí hãy yên tâm!
Như Thu
Chúc Nhà Thơ Mau Lành Bịnh
Xa xôi, không dễ tới mà thăm
Dù đã phải đi bịnh viện nằm
Bằng hữu băn khoăn vì nghĩa nặng
Gia đình lo lắng bởi ân thâm
Thơ xưa ai đọc còn vang dội
 Vần cũ tôi nghe vẫn nhớ thầm
Chúc bác mau lành, vui xướng họa
Vợ con bè bạn được an tâm

Song Châu Diễm Ngọc Nhân
THĂM BẠN
Cách trở đường xa, khó đến thăm
Cũng xin khuyên bạn chớ năng nằm
Chân tay ít động thường tê cóng
Máu huyết không thông dễ tím thâm
Thuở trẻ men tình luôn cháy bỏng
Nay già mầm bệnh cứ gieo thầm
Ngày ngày đi bộ chừng mươi phút
Thể dục làm hưng phấn nội tâm
Thục Nguyên
TRÊN GIƯỜNG BỆNH
Trận bão vô tình ghé lại thăm
Đẩy đưa thi hữu tới giường nằm
Bạn bè thăm hỏi, tình sâu nặng
Thân quyến vào ra, nghĩa đậm thâm
Trong nóng từng cơn, thân mỏi mệt
Ngoài mưa bất tận, gió thì thầm
Nghỉ ngơi mấy bữa nhìn nhân thế
Giữ vững tinh thần chính tại tâm
Trương Ngọc Thạch
7/30/2016
Chúc nhà thơ
LÊ ĐĂNG MÀNH
sớm bình phục.
Xa gần thi hữu gửi lời thăm
Quí thể bất an phải chịu nằm.
Ấy bởi nắng hè gây cảm mạo,
Hay vì  mưa lũ lạnh châu thân?
Vững tâm tĩnh dưỡng nghe bà xã,
Bình phục chuyển mau bạn chúc  thầm.
Bão tố dứt cơn trời lại sáng,
Lời quê góp nhặt ý thành tâm.
Uyên Quang
31-7-­2016
VN AN THI HUYNH
Kính nương vận"Đa Tạ"
Cách trở ngàn trùng khó đến thăm
Nghe tin huynh bệnh phải đi nằm
Văn chương qua mạng tình thân mật
Bút pháp trao lời nghĩa rộng thâm
Nhắn gởi tám câu lòng giảm nhẹ
Vấn an dăm vận dạ mong thầm
Cầu cho thi lão mau bình phục
Xướng họa vui đời ngát ý tâm.
Phùng Trần - Trần Quế Sơn
(Illinois; July-31-2016)
THĂM HỎI
Lâu ngày xa cách gởi lời thăm
Sức khỏe ra sao ? Hay phải nằm
Gánh nợ gia phong thân thấm đẩm
Mang duyên lễ giáo phận lo thầm
Yêu thương cuộc sống nên tình đậm
Mến mộ lòng người khiến nghĩa thâm
Nguyệt lãm vang xa dâng xúc cảm
Trăng vàng ngời sáng bởi thành tâm.
Trần Văn Hạng.
CHÚC BẠN
Vũng tàu - Quảng trị  - Khó ra thăm
Chúc bạn qua Face - Bệnh khỏi nằm
Xướng họa bao năm tình cảm đậm
Giao lưu lắm bận nghĩa ân thâm
Dù chưa gặp mặt - Lòng thông cảm
Cũng đã quen danh - Trí hiểu thầm
Mong ước tuổi già luôn thoải mái
Ô lâu ngoạn thủy khỏe thân tâm.!
02.8.2016                   Hồ Trọng Trí
MONG HUYNH KHỎE
Tin huynh bị bệnh chả sao thăm
Chỉ nguyện thân huynh được ổn nằm
Thắm thiết đường thi nơi nghĩa nặng
Đậm đà Lãm Nguyệt chốn uyên thâm
Cam đành nét bút lời thăm hỏi
Cũng phải tình văn tiếng gửi thăm
Nguyện Phật gia trì huynh chóng khỏe
Sum vầy bạn lữ hãy yên tâm
GM.Nguyễn Đình Diệm 

Thứ Sáu, 21 tháng 11, 2014

Ô LÂU GIANG PHÚ!

Ô LÂU GIANG PHÚ!
Từ châu Hoan Châu Hóa-thiên di tạm dừng Chân
Đến Châu Rí châu Ô - lập nghiệp thôi tiếp bước
Chim đậu -đất lành xứ ô lâu
Người nương -suối ngọt miền sông nước

Trộm nghe,nên nay!
Kẻ Hậu Bối - Giam thân trích lục cùng miền xuôi
Bậc Tiền Nhân- Gợi ý sao tìm khắp mạn ngược.
Bao bận -Manh nha đứng chờ cung tay để nâng nghiên
Đôi phen-Thắc thỏm ngồi đợi dỏi mắt mong mài mực.

Vẫn còn đó- Cây đa gió gom nghĩa ngày xưa
Mãi lưu đây-Bến cộ trăng gọi tình thuở trước.

Vinh quang thay!
Miền Câu Lãm - Bùi Dục Tài Tiến Sĩ khai khoa”1”
Xứ Vân Trình - Trần Văn Kỷ Trung thư phục quốc”2”
Làng Vĩnh Cố- Ngyễn Quang Vệ Uý đã tới vinh quang
Quê An Thơ –Lục Sự Hoàng Từ lui về tủi nhục.
Hào hoa Kẻ Vịnh -Thượng quan Nguyễn Đức Trứ giữ dạ thanh liêm
Lịch lãm An Thư- Tuần phủ Nguyễn Đức Hoan gìn lòng chính trực”+”.

Không hẳn Nam tử- Bút tung phượng múa rồng bay
Mà còn Nữ lưu - Chữ động quần là áo lượt
Qua Mỹ Chánh - Lừng danh thứ thiếp “3”Quang Trung- một dạ thương nòi
Về Hội Kỳ - Ngát tiếng Cửu Giai “4” Thành Thái - chung lòng yêu nước.
Trang võ tướng- Đôi bờ còn tán tụng giỏi binh thư
Đấng văn quan-Muôn bến mãi biểu dương tài thao lược
Nơi hiểm trở- Quân Tây Sơn không ngại Đá giăng cồn
Chỗ khó khăn- Tướng Nguyễn Huệ chẳng tày Bà Đa vực.*

Thương kính quá!
Bờ Hà Lỗ - Thể phách Văn Sở Tướng Quân- đất gói oan khiên
Bến Ưu Điềm -Thuyền tang Tài Nhân Thị Ngọt-sóng trào sướt mướt”5”

Lẫm liệt thay!
Tráng liệt tử- Hồng Lô Tự Khanh vua Minh Mạng tặng phong
Nguyễn Tri Phương- Quân Kỳ Thạc Phụ đời Miên Tông ban tước « 6 »
Phò Mã- Kết duyên với công chúa Đồng Xuân
Nguyễn Lâm - Tử trận gìn non sông Tổ Quốc
Xã Chánh Lộc- Từ đường Phụ Tử muôn thuở khói bay
Làng Chí Long- Miếu mộ Đệ Huynh nghìn thu bia tạc.

Nghệ nhân Măc khách -Mỹ Xuyên còn nức tiếng tợ Kế Môn
Quân Tử Trượng phu- Phò Trạch mãi lừng danh như Đại Lược.

Nam Quảng Trị bao kẻ chợ-Mỹ Chánh Hà Lộc Kẻ Lạng Hà Lỗ Câu Nhi,AnThơ Phú Kinh Kẻ Văn Kẻ Vịnh sử xanh không quên,
Bắc Thừa Thiên bấy làng quê - Phước Tích Mỹ Xuyên Trạch Phổ Ưu Điềm Hòa Viện,Vĩnh An Vân Trình Phú Nông Điền Hương con đỏ còn thuộc. « 7 »

Thời Minh Mạng –Lừng danh An Thơ Nguyễn Đức Hoạt Thượng Thư Nguyễn Đức Tư Tri Phủ vọng tộc thế phiệt trâm anh,
Thuở Miên Tông- Vang tiếng Kẻ Vịnh Tri Phủ Nguyễn Đức Dĩnh Viên Ngoại Nguyễn Đức Giãn thế gia vương tôn đài các.

Đất Văn Qũy - công thần Nguyễn Văn Vịnh Tri phủ Viện Sỹ Hàn Lâm
Xứ Câu Nhi-Danh tướng Hoàng Tự Bôi Tam Phẩm Phụng Sắc Triều Mạc. « 8»
Làng cổ Phước Tích-Họa sư Lê Văn Miến màu đọng lung linh « 9»
Giáo xứ Kẻ Văn-Thánh đạo Lê Đăng Thị hương bay ngào ngạt « 10».
Đôi bờ Nam bắc- Cử nhân Tiến sĩ như lá lay bay
Hai dải Trị Thiên-Khanh Tướng công hầu tợ sương lác đác.

Uy nghiêm Phạm vũ-Gia trì khuya sớm ngân tiếng u huyền
Lồng lộng Giáo đường - Cầu nguyện chiều hôm lắng lời trầm mặc.
Cội nguồn sông suối - Hợp lưu cùng sóng nước quần tụ mênh mông
Mạng mạch Ô lâu - Chung thủy với Tam giang tương phùng bát ngát.

Ngẫm nay !
Mây vạn thuở- lang thang đổi săc giữa trời xanh
sóng muôn đời- lãng đãng thay màu bên nước bạc.
Ngày xuống- ngồi đong cuộc có-không
Sáng lên- đứng lường thời được mất.
Thô thiển - Đôi dòng tâm niệm tiếc thương
Bùi ngùi – mấy chữ lòng hoài cảm tác !

                                     Mùa đông Giáp Ngọ
                                        LĐM Phụng Bút

GHI CHÚ :
1- Câu Lãm:Bùi Dục Tài người đổ Tiến sỉ thời Vua Lê Hiển Tông, đây là vị tiến sỉ khai khoa của xứ Đàng Trong, Ông được thăng quan đến chức Tả thị lang Bộ Lại
2- Vân Trình: Trần Văn Kỷ, người làng Vân Trình (tục gọi là làng Rào), tổng Vĩnh Xương, huyện Hương Trà, phủ Triệu Phong, trấn Thuận Hóa (nay thuộc xã Phong Bình, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên - Huế). vốn có văn học, là bậc danh sĩ ở Nam Hà. Được Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ tin dùng, phong đến chức Trung Thư Phụng Chính, tức chức quan chuyên lo việc dự thảo chính lệnh cho nhà vua.
3-Mỹ Chánh :Nguyễn Thị Bích-người vợ thứ hai của anh hùng Nguyễn Huệ - Hoàng Đế Quang Trung
4- Dương Thị Ngọt ở làng Hội Kỳ, xã Hải Chánh ,Với vẻ đẹp đoan trang và phẩm hạnh cao quý, cô gái Dương Thị Ngọt đã trở thành “cửu giai tài nhân” của vị vua yêu nước Thành Thái. Được vua Thành Thái hết mực yêu thương và sủng ái, bà phi Dương Thị Ngọt đã không tránh khỏi sự ghen ghét, đố kỵ vẫn thường xảy ra ở chốn hậu cung mà kết cục là bà bị giáng tội khi quân và phải lãnh án hình xử chém. Tiếc thương ái phi Dương Thị Ngọt, vua Thành Thái đã cho cử hành tang lễ của bà theo nghi lễ của triều đình đối với một hoàng phi và dùng thuyền rồng đưa Linh cửu bà về Cặp bến Uu Điềm và đưa lên yên nghỉ tại quê nhà thân yêu ở thôn Hội Kỳ bên dòng Ô Lâu.
5- Tướng Ngô Văn Sở, một người có công đối với nhà Tây Sơn, nhưng không may bị tội, phải dìm xuống nước sông Hương cho đến chết, thi hài chôn ở gần chùa Linh Mụ. Sau đó hai năm, ông được triều đình phục chức và cho cải táng đưa ra chôn ở làng Hà Lỗ bên bờ sông Ô Giang.
*Địa danh đoạn Sông ở Hội Kỳ có tên:vực Bà Đa và Bãi Đá giăng.
6- Nguyễn Tri Phương tên cũ là Nguyễn Văn Chương, tự Hàm Trinh, hiệu là Đồng Xuyên, sinh ngày 21 tháng 7 năm Canh Thân(1800), quê làng Đường Long (Chí Long), xã Chánh Lộc, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế.
Ông xuất thân trong một gia đình làm ruộng và nghề thợ mộc. Nhà nghèo lại không xuất thân từ khoa bảng nhưng nhờ ý chí tự lập ông đã làm nên công nghiệp lớn.
Năm Quý Mùi (1823), vua Minh Mạng đề bạt ông hàm Điển bộ (Bí thư ở Nội điện), năm sau thăng Tu soạn, rồi Thừa chỉ ở Nội các, hai năm sau thăng Thị độc, Thị giảng học sĩ, năm 1831 thăng Hồng Lô tự khanh.
Tháng 5 năm 1847, ông được triệu về kinh, thăng hàm Chánh Hiệp biện đại học sĩ, lãnh Thượng thư bộ Công đại thần Cơ mật viện, tước Tráng Liệt tử và được ban một Ngọc bài có khắc bốn chữ "Quân kỳ thạc phụ", được chép công trạng vào bia đá ở Võ miếu (Huế)
Con trai Nguyễn Tri Phương là Phò mã Nguyễn Lâm bị trúng đạn chết tại trận Nguyễn Tri Phương cũng bị trọng thương. Ông được lính Pháp cứu chữa, nhưng ông khảng khái từ chối và nói rằng: "Bây giờ nếu ta chỉ gắng lây lất mà sống, sao bằng thung dung chết về việc nghĩa Sau đó, ông tuyệt thực gần một tháng và mất vào ngày 20 tháng 12 năm 1873 (1 tháng 11 Âm lịch), thọ 73 tuổi. Thi hài ông và Nguyễn Lâm được đưa về an táng tại quê nhà. Đích thân vua Tự Đức tự soạn bài văn tế cho ba vị công thần (Nguyễn Duy, Nguyễn Lâm, Nguyễn Tri Phương) và cho lập đền thờ Nguyễn Tri Phương tại quê nhà.
7- Tên làng chữ đậm
8-Hoàng Bôi Người xã Câu Nhi, thôn Câu Lãm Hải Lăng!Triều Mạc ,được dự vào hàng 5 bậc tước,Quan vào hàng Tam Phẩm
9- Lê Văn Miến (1874-1943) là người Việt Nam đầu tiên tốt nghiệp Trường Mỹ thuật Paris, là hoạ sĩ đầu tiên ở Việt Nam.
10- Giuse Lê Đăng THỊ, sinh năm 1825 tại Kẻ Văn, Quảng Trị. Làm Cai Đội dưới thời vua Tự Đức, xử giảo ngày 24-10-1860 tại An Hòa, phong Chân Phước ngày 02-5-1909 do Đức Piô X, phong hiển thánh

Thứ Năm, 16 tháng 10, 2014

ĐỌC “TIỆC RƯỢU GIỮA ĐỒNG” THƠ LĐM Tác gỉa: Châu Thạch



                                ĐỌC “TIỆC RƯỢU GIỮA ĐỒNG”
                                                         THƠ LĐM

                                                              Bình thơ: Châu Thạch

Nhiều người hiểu chữ “Lãng Mạn” có nghĩa đen là “sóng tràn bờ”, là một trạng thái cảm xúc bay bổng,
Phản ảnh một ước mơ của khát vọng vươn lên trên thực tại. Nếu đúng nghĩa là như vậy thì bài thơ “ Tiệc rượu giữa đồng’ cúa lê Đăng Mành là một bài thơ rất lãng mạn và lãng mạn ngay từ cái đầu đề. Thật vậy, có mấy ai mở tiệc rượu giữa đồng. Tiệc rượu đó nếu không là ngông, là kỳ quặc thì phải có ý nghĩa gì vượt xa sự thường tình ở đời. Đọc toàn bộ bài thơ ta thấy nó không ngông, không kỳ quặc mà phát hiện ở đó bày tỏ một nhân cách sống thanh bần và cao thượng:
               
 TIỆC RƯỢU GIỮA ĐỒNG!

Chiều sắp xuống tung lưới quẳng về tây
Vội vã khói mây tiễn cuộc hao gầy
Hư không có biết mai còn gặp lại
Thôi tới đây cạn chén giữa ruộng này

Kênh- mương- bờ - thửa, mâm bàn tiếp bạn…
Lấp lánh hôn hoàng nghiêng vạt cò chao
Bát ngát mênh mông như tranh thủy mặc
Rượu chay chén chuyển khiếp tận vườn đào*
 
Hắt một chén nhâm nhi cùng gió lộng
Không cao lương nên chẳng móc chuyện người
Chén tiếp chén …tay chuyền tay dân dã
Kiếp nông bần uống rượu… cũng kiệm lời

Chẳng khoa trương chuyện thương nòi yêu nước
Mà sử sách ghi mỏi trang bốn ngàn
Chân lấm tay bùn trí soi văn sách
Khoa bảng vọng đồng văn thánh còn ngân

Hắt chén nữa ruộng mương là chăn chiếu
Có ói đây cũng phân bón đất cày
Cho mầm tươi nứt- trổ bông hào kiệt
Dẫu tắt hơi ! thân hóa cỏ đê này

Lý lịch trơn nhờ bùn đất tắm gội
Hãy giữ gìn tinh khiết khi lỡ say
Như sen kia chẳng làm dơ nguồn cội
Vẫn ngát hương thơm hiến cuộc đời này…!

                                            LĐM
*Nơi anh em Lưu Bị kết nghĩa
Vế đầu của bài thơ giới thiệu một tiệc rượu mở ra trên đồng ruộng trong khung cảnh buổi chiều bóng ngã vể tây. Lý do để mở tiệc là vì tác giả sợ đời là hư không nên biết đâu không còn cơ hội gặp nhau . Đọc vế thơ nầy ta biết ngay tác giả dùng bữa tiệc trên đồng ruộng hoặc hư cấu một bữa tiệc như thế để bày tỏ phong cách sống của mình trong những tháng năm vào tuổi Hạc:

            Chiều sắp xuống tung lưới quẳng về tây
            Vội vã khói mây tiễn cuộc hao gầy
            Hư không có biết mai còn gặp lại
            Thôi tới đây cạn chén giữa ruộng này
                 
Chiều sắp xuống tung lưới quẳng về tây” là hình ảnh sống động chỉ sự sắp ra đi ở cuối đời người. Buổi chiều của thời gian chỉ kéo ánh sáng quăng về tây nhưng buổi chiều của đời người thì kéo tất cả vào cái lưới trời lồng lộng quăng vào trong bóng tối. Vậy chữ “tây” ở đây là bên kia thế giới của sự sống hiện tại.

“ Thôi tới đây cạn chén giữa ruộng nầy”: Vì “chiều” thể hiện cho cuộc đời còn lại, “tây’ thể hiện cho thế giới chết bên kia nên “ruộng” ở đây thể hiện cho đất sống hiện tại và “rượu” là niềm vui cần hưởng thụ.

Bốn câu thơ mở đầu đã thể hiện ngay một cách sống vô vi, ung dung và tự tại: Chiều ngã về tây nên ta uống rượu có nghĩa là sắp lìa bỏ đời nầy ta mau hưởng thú vui trên đất.  Thú vui trên đất mà lê Đăng Mành chủ xướng chỉ là một tiệc rượu đơn sơ đạm bạc nhưng đó là linh hồn của sự thắm thiết và tinh hoa của đất trời nơi nhà thơ đang sống:

             Kênh- mương- bờ - thửa, mâm bàn tiếp bạn…
             Lấp lánh hôn hoàng nghiêng vạt cò chao
             Bát ngát mênh mông như tranh thủy mặc
             Rượu chay chén chuyển khiếp tận vườn đào*

Mâm bàn tiếp bạn ở đây là đồng ruộng thân yêu. Rượu ở đây là phong cảnh hữu tình và say ở đây là say hơn cả nghĩa vườn đào mà anh em Lưu Bị ngày xưa kết ước. Một cuộc rượu như thế là cuộc rượu không phải của người phàm phu, vì rượu ở đây là hương vị thơm tho, đẹp đẽ của đất trời trải ra trước mắt mênh mông, cao rộng với biết bao màu sắc bày ra trước mắt những con người có tâm hồn thanh tao đầy thẩm mỹ.

 Bàn rượu và rượu là thứ đời nầy chưa hề có ai đem ra mở tiệc nhưng cách uống của nhà thơ cũng khác lạ:

            Hắt một chén nhâm nhi cùng gió lộng
            Không cao lương nên chẳng móc chuyện người
            Chén tiếp chén …tay chuyền tay dân dã
            Kiếp nông bần uống rượu… cũng kiệm lời

       Chẳng khoa trương chuyện thương nòi yêu nước
       Mà sử sách ghi mỏi trang bốn ngàn
        Chân lấm tay bùn trí soi văn sách
        Khoa bảng vọng đồng văn thánh còn ngân

“Hắt một chén” có nghĩa là không phải uống vào bụng mà làm cho rượu bay ra không gian. Đây là khẩu khí của những con người hào kiệt rưới rượu giữa đất trời, bày tỏ khí phách hiên ngang của mình cùng sông núi.

Những chén tiếp theo nhà thơ chuyền tay cho bạn mình là những con người dân dã, nông bần, “kiệm lời” vì mang tâm tư sâu kín. Họ chẳng khoa trương vọng ngữ nhưng “Chân lấm tay bùn mà trí soi văn sách” Hai vế thơ nầy bày tỏ khí phách cúa những con người nhập tiệc, sự điềm đạm tỉnh táo của lớp người có nhân cách trước thế gian. Họ chỉ là người dân dã nhưng minh triết ở tâm hồn.
  Vế tiếp theo có khẩu khí sảng khoái nhất của bài thơ, như anh chàng nông dân lại múa kiếm nhuần nhuyển giữa đất trời, toát ra cái hào khí ngất trời từ trong chiếc áo nâu:  

             Hắt chén nữa ruộng mương là chăn chiếu
             Có ói đây cũng phân bón đất cày
             Cho mầm tươi nứt- trổ bông hào kiệt
             Dẫu tắt hơi ! thân hóa cỏ đê này

Cái hào khí trong chiếc áo nâu đó nhà thơ muốn không chỉ có ở đời nầy mà nó phải lưu truyền cho thế hệ sau. Dùng ruộng mương làm chăn chiếu, ói cái chất văn chương minh triết của mình để bón phân cho đất, và chôn xác mình nơi đây để hoá cỏ cho đời là lý tưởng tuyệt đối của nhà thơ. Lý tưởng đó không khó với người nông dân bình thường nhưng rất khó với người nông dân trí thức vì chim cánh rộng thì phải bay xa, mấy ai làm kẻ sĩ lại chôn chân mình nơi đồng ruộng được đâu. Nhưng nếu kẻ sĩ  chôn được chân mình nơi đồng ruộng thì nó sẽ biến thành đóa sen đẹp hoàn toàn như vế chót của bài thơ :

         Lý lịch trơn nhờ bùn đất tắm gội
         Hãy giữ gìn tinh khiết khi lỡ say
         Như sen kia chẳng làm dơ nguồn cội
         Vẫn ngát hương thơm hiến cuộc đời này…!

Cuộc đời nầy rất cần nhiều nhân vật trong thơ lê Đăng Mành vì mấy ai chịu “giữ gìn tinh khiết khi lỡ say”, bởi vì họ chẳng say “Tiệc rượu giữa đồng” mà say trên bàn cao ghế đẹp.
   Bài thơ “Tiệc rượu giữa đồng” là một triết lý sống
thanh cao lồng trong một phong cách sống thanh bần.
Ý nghĩa của bài thơ thật sâu xa lồng trong lời thơ thanh thoát.
Rất tiếc người bình không viết đạt những gì mình cảm nhận trong thơ ./.

                                                                                         Châu Thạch

Cập nhật lại theo nguyên bản của tác giả gửi từ:
van tran
truongvantran@hotmail.com
                                                    Sương mai Quê mình "Ảnh LĐM"